Thứ Hai, 21 tháng 5, 2012

Vật liệu xây không nung lợi ích đã rõ

Vật liệu xây không nung lợi ích đã rõ

Sau 2 năm thực hiện chương trình phát triển vật liệu xây không nung (VLXKN), sản lượng 3 chủng loại sản phẩm chính là gạch xi măng, gạch bê tông khí và gạch bê tông bọt đều có khả năng đạt, vượt mục tiêu đề ra.

Tuy nhiên, việc tiêu thụ, nhất là gạch bê tông khí và bê tông bọt, rất hạn chế. Thậm chí, có DN không tiêu thụ được đã phải dừng sản xuất. Thực tế này đòi hỏi phải có những giải pháp quyết liệt hơn trong thời gian tới để đưa chương trình phát triển VLXKN tới đích.
Sản xuất gạch không nung trên dây chuyền hiện đại tại Công ty TNHH một thành viên Nam Huy (Lào Cai).

Chỉ tiêu thụ được 50-60% sản lượng

Sau 2 năm triển khai chương trình phát triển VLXKN là hàng loạt dây chuyền sản xuất VLXKN đã được đầu tư đều đi vào hoạt động. Trước khi ban hành chương trình (tháng 4-2010), các địa phương chỉ có dây chuyền quy mô nhỏ, công suất dưới 3 triệu viên gạch xi măng/năm, đến nay đã có những dây chuyền công suất 60 triệu viên/năm. Thống kê chưa đầy đủ, cả nước hiện đạt tổng công suất 3 tỷ viên gạch xi măng/năm. Trong khi đó, từ 1 dây chuyền sản xuất gạch bê tông khí, 100.000m3/năm, đã có 22 DN đầu tư (9 DN đã hoạt động), với tổng công suất 3,8 triệu mét khối/năm. Còn với gạch bê tông bọt, từ 4 dây chuyền, công suất 4000-10.000m3/năm, hiện đã có 17 cơ sở đầu tư sản xuất với tổng công suất 190.000m3/năm. Tính cả 3 sản phẩm chủ lực trên, VLXKN hiện đạt tỷ lệ 16-17% tổng vật liệu xây (mục tiêu chương trình đạt tỷ lệ 20-25% vào năm 2015). Tuy nhiên, ngoài sản phẩm gạch xi măng có mặt trên thị trường từ lâu, giá bán thấp hơn so với gạch đất sét nung, nên có khả năng tiêu thụ tốt (85%-90% sản lượng), thì gạch bê tông khí và bê tông bọt tiêu thụ rất chậm. Báo cáo của Hiệp hội VLXD cho thấy, hầu hết các dây chuyền gạch bê tông khí, bê tông bọt chỉ chạy 20-30% công suất thiết kế. Chỉ có 1 dây chuyền đạt gần 50% công suất thiết kế. Có đơn vị mới đi vào sản xuất đã phải dừng hoạt động do hàng tồn kho lớn, tiêu thụ không được, nếu tiếp tục vận hành lại càng tốn kém. Mặc dù chạy chưa hết nửa công suất, nhưng hầu hết các nhà máy cũng chỉ bán được 50-60% sản lượng. Năm 2011, 9 nhà máy bê tông khí tiêu thụ 0,2 triệu mét khối sản phẩm, còn 17 nhà máy bê tông bọt tiêu thụ 0,05 triệu mét khối sản phẩm. Tình hình tiêu thụ 4 tháng đầu năm 2012 cũng chưa có dấu hiệu khả quan. Nguyên nhân là do nhà đầu tư thiếu kinh nghiệm, nguồn vốn hạn chế, nên phần lớn dây chuyền có công nghệ ở mức trung bình. Vì vậy, sản phẩm cũng chỉ đạt chất lượng trung bình theo tiêu chuẩn Việt Nam. Các nhà máy lại ra đời đúng lúc kinh tế gặp khó khăn, lạm phát cao, đầu tư công cắt giảm, thị trường bất động sản đóng băng, nên sản phẩm vật liệu tiêu thụ chậm. Mặt khác, lãi suất tăng cao, chi phí sản xuất cao đã đẩy giá thành sản phẩm gạch bê tông cao hơn gạch đất sét nung 20-25%.

Gạch đất sét nung vẫn chiếm tỷ lệ lớn

Một trong những mục tiêu tăng cường sản xuất VLXKN là hạn chế gạch đất sét nung, bởi quá trình sản xuất loại gạch này gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Song, đến thời điểm này, sản lượng gạch đất sét nung cả nước vẫn đạt khoảng 20,9 tỷ viên, chiếm 83% vật liệu xây, trong đó sản lượng gạch sản xuất bằng lò thủ công, là loại lò gây ô nhiễm môi trường vẫn chiếm 35-40%. Đáng chú ý, Hà Nội cùng với Thái Bình, Vĩnh Long, An Giang là những địa phương còn nhiều lò gạch thủ công nhất nước. Như vậy, mục tiêu đến năm 2010 không còn lò gạch đất sét nung thủ công như Bộ Xây dựng đề ra đã "phá sản".
Các chuyên gia cho rằng, công trình cao tầng phải sử dụng tối thiểu 30% VLXKN nhẹ. Các địa phương phải quyết liệt thực hiện lộ trình giảm sản xuất, sử dụng gạch đất sét nung và chấm dứt lò gạch thủ công. Với công trình cao 25 tầng, sử dụng VLXKN nhẹ thay gạch đất sét nung, mặc dù giá thành VLXKN cao hơn gạch đất sét nung nhưng chi phí đầu tư toàn công trình giảm 8% do giảm chi phí kết cấu móng, khung dầm nhờ trọng lượng gạch nhẹ; giảm được chi phí quản lý, chi phí tài chính nhờ tiến độ thi công được đẩy nhanh, sớm đưa công trình vào sử dụng do năng suất thi công cao hơn. Chưa kể, VLXKN tiết kiệm năng lượng làm mát mùa hè, sưởi ấm mùa đông trong giai đoạn vận hành. Theo tính toán, nếu sử dụng toàn bộ sản lượng 4,2 tỷ viên gạch quy tiêu chuẩn VLXKN, có thể tiết kiệm được 6,15 triệu mét khối đất sét, 615.000 tấn than và giảm thải vào khí quyển 2,4 triệu tấn CO2.

Thứ Ba, 1 tháng 5, 2012

Vật liệu xây không nung thiếu hành lang pháp lý

 

Vật liệu xây không nung (VLXKN) mặc dù được xem là vật liệu xanh, thân thiên môi trường và được khuyến khích sử dụng.Tuy nhiên, các DN sản xuất loại vật liệu này đang rất khó khăn trong việc tìm chỗ đứng trên thị trường.


Vật liệu xây không nung: Hành lang pháp lý thiếu đồng bộ
ảnh minh họa

Cho đến thời điểm hiện nay theo nhiều chuyên gia nguyên nhân của sự việc trên là do chúng ta thiếu một cơ chế, chính sách đồng bộ.

Theo số liệu thống kê của Hiệp hội vật liệu xây VN cho thấy, hiện các DN sản xuất VLXKN chỉ sản xuất đạt khoảng 20 - 30% công suất thiết kế. Nhà máy nào hoạt động tốt nhất cũng chỉ phát huy được 50% công suất.
Sức tiêu thụ yếu
Hiện có 7 nhà máy đang tồn tại trong tình trạng sản xuất cầm chừng, 1 nhà máy phải dừng hẳn. Vậy nhưng vẫn có 15 nhà máy đã đầu tư, đang chuẩn bị khánh thành và khoảng gần 20 nhà máy nữa đang trong quá trình triển khai đầu tư xây dựng.
Phản ánh từ đại diện Cty cổ phần Tân Kỷ Nguyên cho thấy, sau hai năm đầu tư xây dựng và chạy thử, với số vốn đầu tư giai đoạn 1 khoảng 160 tỉ đồng, nhà máy có công suất thiết kế khoảng 450.000 mét khối/năm, khoảng 350 triệu viên gạch tiêu chuẩn, Cty này đã cho ra thị trường mẻ gạch đầu tiên vào đầu năm 2011. Tuy nhiên, hiện Cty đang gặp thử thách rất lớn khi sức tiêu thụ của thị trường quá yếu, không như kỳ vọng ban đầu vì hiện nhà máy chỉ hoạt động bằng một phần tư công suất thiết kế.
Chia sẻ từ một đại diện DN sản xuất VLKN có tiếng tại Thanh Hóa cũng cho thấy, trong năm 2011 Cty chỉ bán được khoảng hơn 15.000 khối gạch ra thị trường trong khi đó theo thiết kế công suất hoạt động của Cty là 500.000 mét khối/năm. Như vậy, đây là một con số khá khiêm tốn so với năng lực của nhà máy - lãnh đạo Cty chia sẻ.
Vướng từ cơ chế
Thiếu một nhạc trưởng đứng ở vị trí phù hợp để điều hành có hiệu lực và hiệu quả về phát triển vật liệu xây dựng.

Theo ông Phạm Văn Bắc - Phó vụ trưởng Vụ VLXD, định hướng đến 2020 VLXKN chiếm khoảng 30 - 40% vật liệu xây. Tuy nhiên, chặng đường để đạt được mục tiêu “khiêm tốn” đó cũng không dễ dàng. Ông Bắc cho biết thêm, một khi công suất chưa được phát huy, hành lang pháp lý dẫn đường thiếu đồng bộ, hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật còn đang trong quá trình xây dựng nên các công trình sử dụng vốn nhà nước không dám sử dụng bởi không thể thanh quyết toán…
Phân tích của một số chuyên gia đầu ngành xây dựng cho thấy, nếu chiếu theo Quyết định 567 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ về Quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư thì hiện các văn bản hướng dẫn thực hiện cơ chế chính sách hỗ trợ cho việc đầu tư phát triển và sử dụng VLXKN chậm được ban hành, nên các DN đầu tư sản xuất VLXKN chưa được hưởng các ưu đãi theo quy định.
Đồng thời, những quy định sử dụng VLXKN vào các công trình xây dựng chưa được hướng dẫn cụ thể, chưa đủ mạnh để buộc các chủ đầu tư phải sử dụng VLXKN. Đơn cử, mặc dù nhà nước đã quy định phải sử dụng trên 30% gạch bê tông nhẹ cho các tòa nhà cao tầng, nhưng nhiều chủ đầu tư chưa tuân thủ trong khi các cơ quan quản lý lại thiếu biện pháp chế tài. Nếu các cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu phải dùng loại gạch này mới phê duyệt dự án thì chắc chắn các chủ đầu tư và nhà thầu phải tuân theo - chuyên gia chia sẻ.
Trao đổi cùng DĐDN, Chủ tịch Hiệp hội VLXD, ông Trần Văn Huynh lập luận : “Sản xuất VLXKN là loại hình sản xuất công nghiệp, tổ chức quản lý mang tính chất tập trung, sản lượng lớn. Quan hệ giữa xây dựng và sản xuất loại vật liệu này là quan hệ hợp đồng cung ứng dịch vụ mang tính cạnh tranh, và độc lập trong thực hiện.
Thế nhưng, do tổ chức quản lý đầu tư phát triển VLXKN khép kín theo bộ ngành TƯ và địa phương trong suốt thời gian qua, dẫn đến phân tán trong đầu tư không theo quy hoạch, không theo cơ cấu sản phẩm, biến các cơ sở sản VLXKN phụ thuộc vào sự chỉ đạo của các cấp theo cơ chế chủ quản TƯ và địa phương. Cấp chỉ huy thì nhiều, nhưng lại thiếu một nhạc trưởng đứng ở vị trí phù hợp để điều hành có hiệu lực và hiệu quả về phát triển vật liệu xây dựng nói chung, VLXKN nói riêng”, ông Huynh cho biết.
Vụ trưởng Vụ VLXD, Bộ Xây dựng Lê Văn Tới cũng đồng tình rằng, việc tạo cơ chế đồng bộ cho VLXKN cần phải đẩy nhanh hơn vì những mục tiêu xã hội hết sức tốt đẹp. Thiết nghĩ, hơn lúc nào hết chúng ta cần đồng bộ tháo gỡ và tạo điều kiện về cơ chế và tổ chức quản lý để phù hợp với xu thế phát triển, góp phần bảo đảm an ninh lương thực, bảo vệ môi trường, làm phong phú sản phẩm vật liệu xây dựng.


Nguồn đọc thêm: http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=381649#ixzz1tfbwQNrS
http://www.xaluan.com/

Ngành vật liệu xây dựng thích ứng với biến đổi khí hậu

Thứ hai, 30/04/2012, 09:24 (GMT+7)
Trên địa bàn TPHCM có 305 lò gạch thủ công của 94 cơ sở nằm chủ yếu ở quận 9 và Thủ Đức. Trước tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng trong quá trình nung, đốt gạch gây ra, từ năm 2006, TPHCM đã bắt đầu thực hiện việc chấm dứt hoạt động lò gạch thủ công trên địa bàn TP. Đến nay, tất cả các cơ sở sản xuất gạch nung bằng thủ công tại TPHCM đã không còn.
Đổi mới công nghệ
Sản xuất gạch ngói đất sét nung là ngành nghề truyền thống lâu đời tại TPHCM. Sở Xây dựng TP cho biết, trước năm 2000, đa số các cơ sở sản xuất gạch xây bằng lò thủ công được xây dựng ở các huyện ngoại thành như Bình Chánh, Hóc Môn, Thủ Đức, Củ Chi và nay tập trung chủ yếu ở quận 9 và Thủ Đức. Các cơ sở trên hàng năm cung cấp cho thị trường 300 triệu viên gạch nung các loại với nhiều quy cách khác nhau.
Với công nghệ cũ, những cơ sở này dùng đất sét để sản xuất gạch được mua trôi nổi, không có nguồn gốc xuất xứ, được vận chuyển từ các tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương… Chất đốt để nung gạch là các loại than đá, củi, cây cao su, phế liệu từ sản phẩm lâm nghiệp, vỏ trấu, bao ni lông, vỏ xe phế thải… Việc sử dụng các chất đốt này đã thải ra một lượng lớn khí độc hại tác động đến môi trường sinh thái, sức khỏe cộng đồng cư dân. Ông Phan Đức Nhạn, Phó Giám đốc Sở Xây dựng cho biết, việc sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công không chỉ gây ảnh hưởng đến môi trường, cộng đồng dân cư mà còn dẫn đến lãng phí tài nguyên đất nông nghiệp vốn ngày càng hạn hẹp, làm ảnh hưởng đến chương trình an ninh lương thực.
TPHCM không còn cơ sở gạch nung đất sét bằng thủ công. Trong ảnh: Một cơ sở gạch nung đất sét tại quận 9 trước đây. Ảnh: HUY ANH
Trước tình hình đó, thực hiện Chương trình phát triển vật liệu xây dựng (VLXD) không nung đến năm 2020 của Chính phủ, theo chỉ đạo của UBND TP, Sở Xây dựng đã phối hợp với các cơ quan chuyên ngành để phổ biến đến các quận – huyện về chủ trương thực hiện chấm dứt hoạt động lò gạch thủ công trên địa bàn TP. Sở cùng các đơn vị liên quan cũng đã tuyên truyền, phổ biến và tổ chức các hội nghị chuyển đổi ngành nghề cho chủ cơ sở sản xuất gạch nung bằng lò thủ công. Sở Xây dựng cũng đã phối hợp với Hiệp hội Xây dựng và VLXD TPHCM tổ chức các chuyên đề “Phát triển VLXD không nung”, giới thiệu các dây chuyền, thiết bị sản xuất VLXD không nung và ưu điểm của sản phẩm này để các tổ chức, cá nhân và đặc biệt là các đối tượng chuyển đổi nghề từ sản xuất gạch nung từ lò thủ công trên địa bàn quận 9 và Thủ Đức tìm hiểu, đầu tư. Phát triển sản xuất, sử dụng VLXD không nung thay thế gạch đất sét nung là xu hướng tất yếu của ngành công nghệ VLXD hiện đại và bền vững, góp phần giảm hiệu ứng nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Về phía địa phương, UBND quận 9 cũng đã tăng cường kiểm tra, xử lý các phương tiện chuyên chở đất nguyên liệu để sản xuất gạch nung bằng lò thủ công; thu hồi giấy chứng nhận đăng ý kinh doanh hộ cá thể đã cấp cho các cơ sở với ngành nghề sản xuất VLXD; đẩy nhanh tiến độ hoàn thành Cụm Công nghiệp Long Sơn để tạo điều kiện cho các cơ sở có nhu cầu chuyển đổi công nghệ vào tham gia sản xuất… Với sự nỗ lực và phối hợp chặt chẽ giữa Sở Xây dựng, UBND quận 9, UBND quận Thủ Đức và các sở - ngành liên quan, đến nay tất cả các cơ sở sản xuất gạch nung bằng lò thủ công trên địa bàn TP đều đã dừng hoạt động. TPHCM là một trong những tỉnh thành đi đầu trong việc chấm dứt hoạt động lò gạch thủ công theo chủ trương của Chính phủ. Ông Nhạn cũng cho biết, Thanh tra Sở Xây dựng sẽ tiếp tục phối hợp với địa phương tiến hành kiểm tra thường xuyên, xử lý, kết hợp tuyên truyền, vận động, đảm bảo không tái sản xuất gạch nung bằng lò thủ công trên địa bàn TP.
Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp
Là ngành nghề truyền thống, sản xuất gạch đất sét nung đóng vai trò rất lớn trong việc tạo ra công ăn, việc làm cho người dân. “Chính vì thế, trong quá trình thực hiện việc chấm dứt các cơ sở sản xuất gạch nung bằng lò thủ công, Sở Xây dựng đã phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành khảo sát, phân loại các cơ sở sản xuất nằm trong và ngoài dự án đầu tư; thống kê phân loại lao động để xác định lao động nhập cư hay địa phương; phân số lượng lò nung theo từng loại để có cơ sở đề xuất UBND TP hỗ trợ cho từng trường hợp, tạo điều kiện cho chủ cơ sở chấp hành chủ trương của nhà nước” - ông Nhạn cho biết.
Dưới sự hướng dẫn của sở, UBND quận 9 đã lập phương án hỗ trợ các cơ sở có vị trí nằm ngoài các dự án đầu tư chấm dứt hoạt động trên địa bàn. Hiện UBND TP đã phê duyệt phương án hỗ trợ các cơ sở sản xuất gạch nung bằng lò thủ công chấm dứt hoạt động trên địa bàn quận 9 với tổng kinh phí hơn 18 tỷ đồng. Theo đó, các cơ sở sản xuất gạch nung bằng lò thủ công nằm ngoài các dự án đã quy hoạch trên địa bàn quận 9 sẽ được hỗ trợ để chấm dứt hoạt động; người dân địa phương, người lao động thuộc đối tượng được hỗ trợ cũng sẽ được hỗ trợ đào tạo nghề tại Trung tâm Dạy nghề quận 9 để có điều kiện ổn định đời sống.
“Để có được thành quả này, ngoài chủ trương, chính sách rõ ràng và được triển khai đồng bộ từ trung ương đến địa phương thì với sự tuân thủ các quy định pháp luật và lòng tin, mong ước của người dân là muốn xây dựng một TP ngày càng văn minh, sạch đẹp” - ông Nhạn nói.
Theo quy hoạch tổng thể phát triển VLXD đến năm 2020, nhu cầu sử dụng vật liệu xây tương ứng khoảng 42 tỷ viên gạch quy chuẩn. Nếu đáp ứng nhu cầu này bằng gạch đất sét nung sẽ tiêu tốn khoảng 57 - 60 triệu m3 đất sét tương đương với 2.800ha đến 3.000ha đất nông nghiệp; tiêu tốn từ 5,3 đến 5,6 triệu tấn than, thải ra khoảng 17 triệu tấn khí CO2 gây hiệu ứng nhà kính.