Thứ Hai, 23 tháng 4, 2012

Ưu điểm và hạn chế của mô hình thí điểm xử lý khói lò

(BG)-Để hạn chế tác hại của lò gạch thủ công đối với môi trường, thời gian qua, một số đơn vị đã thử nghiệm áp dụng hai công nghệ xử lý khói lò gạch trên địa bàn tỉnh. Nhiều người dân hy vọng công nghệ mới này sẽ được cơ quan chức năng cho phép nhân rộng, tạo điều kiện cho bà con được tiếp tục sản xuất gạch sau khi lò thủ công bị xoá bỏ.


Công nghệ xử lý khí thải bằng phương pháp hấp phụ do Trung tâm Khoa học Công nghệ và Luyện kim (Hà Nội) chuyển giao tại huyện Hiệp Hoà, Yên Dũng, Lục Nam trên tổng số 13 lò. Đặc điểm của lò là thiết kế mái che kín và xây ống khói kín, có quạt hút khói thải để dẫn qua bể dung dịch chứa sữa vôi, than hoạt tính và một số phụ gia khác. Toàn bộ khí thải độc hại như: SO2, NO2, CO, H2S, NH3… được dẫn qua bể gây phản ứng hoá học, xử lý thành khói sạch thải ra ngoài. Anh Nguyễn Văn Uyên, thôn Hồng Phúc, xã Đồng Phúc, một trong những hộ tham gia thử nghiệm cho biết: "Tuy áp dụng sản xuất lò theo công nghệ mới bằng phương pháp hấp phụ có đòi hỏi kỹ thuật khắt khe hơn nhưng bù lại tỷ lệ gạch đẹp đạt 80%, tăng 10% so với đốt bằng phương pháp thủ công và không ảnh hưởng đến lúa, hoa màu của bà con trong vùng". Bên cạnh đó, công nghệ xử lý khí ngưng tụ và khuếch tán tuần hoàn do Công ty cổ phần kỹ thuật Thiết bị và Môi trường (Hà Nội) chuyển giao cũng được thử nghiệm tại một số xã của huyện Việt Yên, Yên Dũng. Kết quả đánh giá của Hội đồng Khoa học và Công nghệ do UBND tỉnh tổ chức vừa qua kết luận, cả hai công nghệ trên đều đạt yêu cầu song cần tiếp tục xem xét, cải tiến.
Tìm hiểu được biết, hiện nay, hai công nghệ gạch nung tiên tiến, hiện đại là lò liên hoàn và tuynel. Loại lò này có công suất lớn, cần nguồn đất cũng như vốn đầu tư lớn, mặt bằng rộng nên rất ít chủ lò gạch thủ công có đủ điều kiện để chuyển đổi. Trong khi đó, vốn đầu tư của hai loại lò áp dụng công nghệ xử lý khí thải ở mức 600-800 triệu đồng/lò, phù hợp với quy mô hộ gia đình. Tuy nhiên, đi cùng với những ưu điểm, việc áp dụng hai công nghệ thí điểm cũng phát sinh hàng loạt vấn đề cần quan tâm. Trên thực tế, nếu vận hành theo đúng quy trình mà đơn vị chuyển giao công nghệ yêu cầu thì những lò gạch được xử lý khí thải giảm thiểu ô nhiễm môi trường song lại tốn thêm một khoản chi phí cho điện hoặc dầu, nguyên liệu khác. Bởi vậy rất dễ xảy ra tình trạng chủ lò không tự giác vận hành thiết bị liên tục mà sử dụng chỉ có tính chất đối phó, lúc có, lúc không dẫn tới môi trường vẫn bị ô nhiễm. Ông Nguyễn Văn Chính, Phó Chủ tịch UBND huyện Hiệp Hoà cho biết: "Trong quá trình nung đốt, nếu không có sự giám sát thì các chủ lò có thể không cho vận hành hệ thống xử lý khí thải mà gạch vẫn chín bình thường. Hoặc khi mất điện thì việc sử dụng máy phát điện phục vụ chạy thiết bị cũng không khả quan bởi hệ thống này dùng nguồn điện 3 pha". Để khắc phục hạn chế này, một số ý kiến cho rằng nếu cho phép nhân rộng công nghệ xử lý khí thải lò gạch, chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm giám sát. Trước khi đun đốt các chủ lò phải cam kết thực hiện đúng quy trình, ký quỹ môi trường ở mức cao. Trong trường hợp bị cơ quan chuyên môn phát hiện vận hành thiết bị không liên tục gây ô nhiễm môi trường sẽ không được tiếp tục đốt lò, bị xử phạt ở mức cao. Khi có chế tài xử lý kiên quyết, các chủ lò sẽ tuân thủ đúng quy trình công nghệ và ràng buộc được trách nhiệm của họ.
Nếu được cơ quan chức năng cho phép áp dụng, hai công nghệ xử lý khí thải lò gạch sẽ tạo thuận lợi cho một số hộ khai thác, tận dụng quỹ đất xấu ven sông, ngòi để sản xuất gạch mà không gây ra những hệ quả đối với môi trường. Ông Nguyễn Văn Khiển, Chủ tịch UBND xã Đồng Phúc (Yên Dũng) cho biết: "Trước đây, xã có gần 100 lò sản xuất gạch ngói thủ công, thu hút khoảng một nghìn lao động. Nhiều năm nay, dải đất ven sông không thể canh tác lúa, hoa màu mà chỉ có thể làm gạch. Hơn nữa nguồn ngân sách xã chủ yếu thu từ hoạt động này. Vì vậy, xã đề nghị tỉnh cho áp dụng mô hình công nghệ xử lý khói lò gạch đã được thử nghiệm đạt kết quả tốt tại xã". Không chỉ có Đồng Phúc tại một số xã Minh Đức (Việt Yên), Xuân Hương (Lạng Giang), Đồng Việt (Yên Dũng)… có nguồn đất ven sông, ngòi chỉ thích hợp cho hoạt động sản xuất gạch, đồng thời góp phần tạo việc làm cho hàng nghìn lao động. Vì vậy việc chuyển đổi công nghệ sản xuất gạch ngói đáp ứng nhu cầu xây dựng cũng như khai thác tiềm năng nguồn đất tại một số nơi là cần thiết.
Theo tổng hợp của Sở Xây dựng, năm 2010, nhu cầu về gạch xây dựng là hơn 360 triệu viên, dự kiến năm 2015 là 620 triệu viên, năm 2020 là 910 triệu viên. Trong đó chủ yếu là gạch nung và vẫn chiếm vị trí quan trọng đối với ngành vật liệu xây dựng của tỉnh. Người dân đang mong đợi các cơ quan chức năng, các nhà khoa học sớm đưa ra kết luận chính thức về mô hình thử nghiệm xử lý khí thải lò gạch.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét